Các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51

Tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS cho thấy chính sách khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thì trong quá trình quyết định hình phạt Tòa án có thể áp dụng những tình tiết khác. Vậy các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51 là những tình tiết nào? Hãy cùng chúng tôi theo dõi bài viết dưới đây để biết thêm chi tiết nhé!

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì?

Pháp luật Hình sự không đưa ra khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì, dưới góc độ học thuật thì tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hiểu là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của mỗi loại tội giảm đi so với trường hợp bình thường. Từ đó có thể hiểu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải quyết trách nhiệm hình sự phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh của họ.

Những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật Hình sự hoặc do Tòa án xác định có ý nghĩa làm cho mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội giảm xuống một cách đáng kể và trách nhiệm hình sự của người phạm tội được giảm nhẹ.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hợp đối với người phạm tội và các tình tiết này ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt của Tòa án.

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hạihoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luậtcủa nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.“

Quy định các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51

“Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

…”

Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, trong đó hướng dẫn áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể:

– Về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51 BLHS 2015

Hiện nay, quy định về tình tiết giảm nhẹ khác khoản 2 điều 51 bộ luật hình sự 2015 chưa được HĐTP TANDTC hướng dẫn cụ thể.

Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tham khảo quy định tại điểm c mục 5 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 để xác định tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ.

Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã kế thừa quy định của các BLHS trước đó, tiếp tục quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TTGN TNHS) để Hội đồng xét xử (HĐXX) cân nhắc khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, TTGN TNHS tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 SĐ, BS 2017 chưa được quy định cụ thể dẫn đến việc áp dụng không  thống nhất.

Cụ thể, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 SĐ,BS 2017 quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là TTGN, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”. So với khoản 2 Điều 46 BLHS 1999 SĐ, BS 2009, quy định hiện hành đã thay cụm từ “phải ghi rõ trong bản án” thành “phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”. Tuy nhiên, quy định hiện hành cũng chỉ quy định chung mà chưa nêu cụ thể “tình tiết giảm nhẹ khác” là tình những tiết nào?

các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51
các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51

Theo điểm c Mục 5 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP, có 08 tình tiết được xem là các TTGN khác. Cụ thể:

(1). Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước;

Thực tế áp dụng, tình tiết này còn được mở rộng ra các đối tượng là “ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cháu ruột gọi người phạm tội là ông, bà nội, ngoại”. Vì các đối tượng này cùng nằm trong hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai.

Đối với “các danh hiệu cao quý khác”, thực tế áp dụng HĐXX còn chấp nhận các hình thức khen thưởng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, chống Mỹ cứu nước như: Dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt Ngụy,…

(2). Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

(3). Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;

Nhiều trường hợp, bị cáo là người tàn tật do tai nạn giao thông, hoả hoạn,… vẫn được áp dụng tình tiết này.

(4). Người bị hại cũng có lỗi;

(5). Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

(6). Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

Thực tế áp dụng, chủ thể thực hiện sửa chữa, bồi thường thiệt hại đã được mở rộng có thể là bạn bè, đồng nghiệp, cấp trên,… của người phạm tội, bởi suy cho cùng ai thực hiện việc bồi thường cũng như nhau – đều muốn nhanh chóng khắc phục hậu quả.  

(7). Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

(8). Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà HĐXX có thể xem xét thêm một số tình tiết khác là TTGN, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

Việc xác định TTGN khác cần cân nhắc đảm bảo điều kiện: thực sự giảm nhẹ tính chất tội phạm; nhân thân đặc biệt của bị cáo; bị cáo thực sự còn khả năng cải tạo;….  để tránh áp dụng tuỳ tiện.

Như vậy, có thể thấy TTGN TNHS có sự phân hoá rất đa dạng tuỳ theo từng vụ việc cụ thể. BLHS không thể dự trù hết được nên việc bổ sung thêm các tình tiết giảm nhẹ tại Nghị quyết này và các văn bản khác là rất cần thiết, góp phần việc xác định hình phạt vừa đảm bảo tính răn đe vừa thể hiện tính nhân đạo, giáo dục người phạm tội của pháp luật.

Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt

Cần hiểu đúng, đủ nội dung của các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự

Yêu cầu này tưởng đơn giản nhưng thực tiễn có nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng hoặc người bào chữa đã hiểu không đúng nội dung của các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS, nên khi bào chữa cho người phạm tội không được Hội đồng xét xử chấp nhận hoặc khi quyết định hình phạt không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội thực hiện, không có tác dụng đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Mỗi tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 và Điều 52 BLHS năm 2015 có tính chất, mức độ tăng nặng, giảm nhẹ khác nhau. Ngay đối với cùng một tình tiết cũng có tính chất, mức độ tăng nặng, giảm nhẹ khác nhau.

Hiểu đúng là xác định đúng nội dung mà nhà làm luật quy định tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ đó như thế nào. Ví dụ: Tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” thì phải hiểu thế nào là phạm tội lần đầu và thế nào là thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Hiểu tính chất, mức độ tăng nặng, giảm nhẹ khác nhau là phải xác định trong mỗi tình tiết đó thì trường hợp nào nghiêm trọng hơn trường hợp nào. Ví dụ: “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại” thì phải xác định tỷ lệ tiền bồi thường so với tổng số tiền thiệt hại mà người phạm tội gây ra, để xem mức độ giảm nhẹ nhiều hay ít.

Hiểu đủ là xác định đủ số lượng các tình tiết được quy định tại mỗi điểm của Điều 51, 52 BLHS năm 2015 mà nhà làm luật đã quy định bao nhiêu tình tiết? Ví dụ: Điểm r nhà làm luật quy định một tình tiết giảm nhẹ nhưng điểm a khoản 1 Điều 51 nhà làm luật quy định hai tình tiết giảm nhẹ chứ không phải một hoặc điểm a khoản 1 Điều 52 nhà làm luật quy định một tình tiết tăng nặng nhưng điểm l khoản 1 Điều 52 nhà làm luật quy định đến 5 tình tiết tăng nặng chứ không phải chỉ có một tình tiết…

Cần phân biệt các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với các tình tiết là dấu hiệu định tội

Các tình tiết là dấu hiệu định tội là những tình tiết mà nếu không có nó thì hành vi không cấu thành tội phạm hoặc nếu có, thì nó cấu thành tội phạm khác nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết tăng nặng) hoặc ít nghiêm trọng hơn (nếu là tình tiết giảm nhẹ). Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói tới các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, còn tình tiết là dấu hiệu định tội có thể không phải là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Lén lút là dấu hiệu định tội trộm cắp tài sản, nhưng nó không phải là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 hoặc Điều 52 BLHS năm 2015.

Yêu cầu của việc phân biệt trong trường hợp này không phải là phân biệt hai tình tiết với nhau, tình tiết nào là dấu hiệu định tội, còn tình tiết nào là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, mà sự phân biệt ở đây là khi một tình tiết nào đó được quy định tại Điều 51 hoặc Điều 52 BLHS năm 2015, mà tình tiết đó đã là dấu hiệu định tội rồi thì khi quyết định hình phạt không được coi tình tiết đó là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ nữa. Ví dụ tình tiết “giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” là dấu hiệu định tội được quy định tại Điều 126 BLHS, nên khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội này, Tòa án không được coi tình tiết “phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” là tình tiết giảm nhẹ nữa. Ý nghĩa của việc phân biệt là ở chỗ đó.

Cần phân biệt các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt

Các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt là những tình tiết mà nhà làm luật dự định nếu có thì Tòa án phải áp dụng ở khung hình phạt mà điều luật quy định có tình tiết đó đối với người phạm tội. Ví dụ: Một người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là thuộc trường hợp phạm tội quy định tại điểm d khoản 2 Điều 189 BLHS năm 2015. Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” trong trường hợp phạm tội cụ thể này đã là dấu hiệu định khung hình phạt, nên khi quyết định hình phạt, Tòa án không được áp dụng tình tiết này là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo nữa.

Các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt thực chất là dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhưng nó là dấu hiệu của cấu thành khác loại (cấu thành tăng nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ). Về cấu thành tội phạm, khoa học luật hình sự chia ra làm ba loại: Cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.

Cấu thành cơ bản là cấu thành không có các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Ví dụ: Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (Tội trộm cắp tài sản). Loại cấu thành này, về cơ bản đã bao hàm đầy đủ những yếu tố cấu thành Tội trộm cắp tài sản (chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan), tức là một người có đủ năng lực TNHS, có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Cấu thành tăng nặng là cấu thành nếu có một hoặc một số tình tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy định trong cấu thành cơ bản và những tình tiết này làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này, cấu thành tăng nặng bao giờ cũng có khung hình phạt nặng hơn so với cấu thành cơ bản. Ví dụ, khoản 1 Điều 173 BLHS (Tội trộm cắp tài sản) là cấu thành cơ bản có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm và là tội phạm ít nghiêm trọng. Nhưng nếu người phạm tội lại có hành vi hành hung để tẩu thoát thì thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS là cấu thành tăng nặng, có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm và là tội nghiêm trọng.

Cấu thành giảm nhẹ là cấu thành nếu có một hoặc một số tình tiết khác ngoài những tình tiết đã được quy định trong cấu thành cơ bản và những tình tiết này làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội ít nguy hiểm hơn so với trường hợp không có tình tiết này, cấu thành giảm nhẹ bao giờ cũng có khung hình phạt nhẹ hơn so với cấu thành cơ bản. Ví dụ, khoản 1 Điều 119 (Tội chống phá cơ sở giam giữ) là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Nhưng nếu người phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119 là cấu thành giảm nhẹ, có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù.

Tuy nhiên, không phải điều luật nào cũng bao gồm cả cấu thành tăng nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ, mà tùy thuộc vào mỗi tội phạm và chính sách hình sự của nhà nước trong việc xử lý từng loại tội phạm. Đa số các tội quy định trong BLHS có cấu thành tăng nặng, chỉ có một số tội có cấu thành giảm nhẹ (chủ yếu là các tội xâm phạm an ninh quốc gia).

Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đã là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ khi quyết định hình phạt nữa.

Chỉ được phép tăng, giảm mức hình phạt trong một khung hình phạt

Điều luật quy định khung hình phạt có mức tối thiểu và tối đa tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm. Khi đã xác định bị cáo phạm tội ở khung hình phạt nào, dù có nhiều tình tiết tăng nặng thì họ cũng không bị xử phạt quá mức cao nhất của khung hình phạt đó. Ví dụ: Bị cáo phạm tội sản xuất hàng giả thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 192 BLHS có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm. Tòa án không được xử phạt bị cáo trên 10 năm tù, dù họ có nhiều tình tiết tăng nặng ở Điều 52. Trường hợp xử phạt dưới 05 năm tù, Tòa án phải nêu được lý do và phải tuân theo những quy định tại Điều 54 có nội dung như sau:

– Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

– Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Đây là quy định mới mà BLHS năm 1999 chưa quy định. Nếu trước đây Điều 47 BLHS năm 1999 quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”, thì nay, Điều 54 BLHS năm 2015 quy định thành 2 khoản, khoản 1 như Điều 47 BLHS năm 1999, còn khoản 2 thì không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật với điều kiện người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Quy định này đã tháo gỡ được yêu cầu của thực tiễn xét xử mà nhiều trường hợp Tòa án phải “xé rào” do quy định ngặt nghèo tại Điều 47 BLHS năm 1999. 

– Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Ví dụ: Nguyễn Văn D phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 đến 03 năm, nhưng D có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, không có tình tiết tăng nặng thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới 06 tháng (theo Điều 36 BLHS thì hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm) hoặc chuyển sang hình phạt tiền là hình phạt nhẹ hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 51 và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm. 

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin